Thực trạng và giải pháp bảo vệ môi trường đến năm 2020

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Trần Hồng Hà kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các địa phương xem xét, ban hành Chỉ thị về một số nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành và địa phương đến năm 2020, có tiến độ hoàn thành và định kỳ kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện.

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác bảo vệ môi trường ngày 24/8, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Trần Hồng Hà đã trình bày báo cáo đánh giá toàn diện về thực trạng và giải pháp khả thi để tăng cường công tác bảo vệ môi trường hiện nay.

Chủ tịch UBND các cấp chịu trách nhiệm toàn diện về công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn.

Thực trạng môi trường: SOS Báo cáo nêu rõ, hàng năm, Việt Nam có hơn 2.000 dự án đầu tư thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Nếu không được đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát hiệu quả thì sẽ là những nguy cơ rất lớn đến môi trường.

Trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m3 nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung; các cụm công nghiệp còn lại, hoặc các cơ sở sản xuất tự xử lý nước thải hoặc xả trực tiếp ra môi trường.

Hơn 500.000 cơ sở sản xuất, trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu; hơn 13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m3 nước thải y tế.

Có 787 đô thị với 3.000.000m3 nước thải ngày/đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý; lưu hành gần 43 triệu môtô và trên 2 triệu ôtô tạo ra nguồn phát thải lớn đến môi trường không khí.

Hàng năm, có 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật được sử dụng, trong đó khoảng 80% lượng thuốc bảo vệ thực vật đang được sử dụng không đúng quy định; hiệu suất sử dụng chỉ đạt 25-60%; công tác thu gom, lưu giữ và xử lý bao bì chưa được quan tâm, nhiều nơi thải bỏ ngay tại đồng ruộng gây phát sinh mùi, khí thải.

Hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại; hiện có 458 bãi chôn lấp rác thải, trong đó có 337 bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; có hơn 100 lò đốt rác sinh hoạt công suất nhỏ, có nguy cơ phát sinh khí dioxin, furan. Đó là những nguồn tác động rất to lớn đến môi trường ở Việt Nam.

Tại Việt Nam đã xảy ra sự cố môi trường lớn tác động trên diện rộng, đặc biệt nghiêm trọng là sự cố môi trường biển miền Trung hồi tháng 4 vừa qua diễn ra trên diện rộng, gây ra hậu quả lớn về kinh tế, xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài; ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản, làm muối, dịch vụ hậu cần nghề cá, du lịch; đồng thời làm xáo trộn, gây mất an ninh trật tự, tâm lý bức xúc, bất an trong nhân dân. Bên cạnh đó là tình trạng hạn hán, khô hạn và hoang mạc hóa do tác động cực đoan của thời tiết và biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Hiện chỉ có 40/786 đô thị trên cả nước có công trình xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn với tổng công suất xử lý khoảng 800.000m3/ngày đêm. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý mới chỉ đạt 10%-11%; còn lại thải trực tiếp ra môi trường.

Nhiều địa phương chưa có bãi chôn lấp chất thải công nghiệp; tình trạng đổ thải, chôn lấp chất thải công nghiệp trái quy định còn xảy ra ở nhiều nơi. Nguồn nước mặt, nước dưới đất trong các đô thị, khu dân cư ở một số địa phương bị ô nhiễm nặng. Tại các lưu vực sông, ô nhiễm nghiêm trọng và suy thoái chất lượng nước tập trung ở vùng trung lưu và hạ lưu, như ở lưu vực sông Nhuệ-Đáy, sông Cầu, hệ thống sông Đồng Nai.

Chủ tịch UBND các cấp chịu trách nhiệm về bảo vệ môi trường trên địa bàn

Đồng tình với nhiều ý kiến phân tích về nguyên nhân những yếu kém trong công tác bảo vệ môi trường chủ yếu là yếu tố chủ quan, Thủ tướng nhận xét, ý thức tôn trọng pháp luật về môi trường chưa nghiêm. Nhiều doanh nghiệp thực hiện không nghiêm túc những quy định về môi trường. Bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường chưa đồng bộ, thiếu thống nhất từ trung ương đến địa phương, chưa theo kịp các diễn biến phức tạp của các vấn đề về môi trường. Cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực này thì yếu và thiếu chuyên môn nghiệp vụ, nhất là các địa phương; một bộ phận cán bộ còn vô trách nhiệm, có biểu hiện tiêu cực. Quản lý Nhà nước còn chồng chéo, thiếu thống nhất, chưa có sự phối hợp tốt giữa Trung ương và địa phương. Ngoài ra, nguồn lực đầu tư cho bảo vệ môi trường còn hạn hẹp, phân bổ dàn trải, nhất là xã hội hóa nguồn lực còn chậm, thiếu cơ chế chính sách đột phá.

Thủ tướng lo lắng trước việc cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương chưa phát huy đúng vai trò bảo vệ môi trường, chưa phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức xã hội, nhất là chưa vận động nhân dân tích cực tham gia vào việc bảo vệ môi trường; việc phát hiện và xử lý còn chậm, chủ yếu qua báo chí và nhân dân mà sự cố Formosa là một điển hình.

Thủ tướng kết luận, ngay sau hội nghị, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành một Chỉ thị về công tác bảo vệ môi trường. Lãnh đạo các địa phương phải khẩn trương ban hành Nghị quyết chuyên đề ở địa phương và ngay sau đó là xây dựng đề án, chủ động rà soát giải quyết vấn đề môi trường tại địa bàn

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định tinh thần chỉ đạo trong bảo vệ môi trường là huy động sức mạnh cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và người dân; tập trung xử lý các khó khăn, yếu kém, thực hiện nghiêm túc đồng bộ các giải pháp, tạo chuyển biến căn bản trong ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi ô nhiễm môi trường.

Bảo vệ môi trường không còn là vấn đề của tương lai mà là vấn đề hiện hữu. Chúng ta cần ngay những giải pháp cả ngắn hạn và dài hạn. Môi trường bền vững đồng nghĩa với chỗ đứng lâu dài và giá trị gia tăng của Việt Nam trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, Thủ tướng nói.

Thủ tướng chỉ đạo, bảo vệ môi trường phải được xác định là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển. Trên tinh thần đó, không thu hút đầu tư bằng mọi giá, chú trọng tiêu chí môi trường trong lựa chọn dự án đầu tư. Không cho phép đầu tư các dự án, các loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu, nhất là dự án tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường ở các vùng nhạy cảm.

Thủ tướng nêu rõ, Chủ tịch UBND các cấp chịu trách nhiệm toàn diện về công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn. Chính phủ coi đây là nhiệm vụ cần tập trung, ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Ở đâu xảy ra môi trường ô nhiễm nặng, Chủ tịch UBND ở đó phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Chính phủ, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thủ tướng cũng yêu cầu có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường từ việc xét duyệt, triển khai dự án và kiểm soát khi sự cố môi trường xảy ra.

Hoan nghênh một số địa phương đã từ chối một số dự án gây ô nhiễm môi trường, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm tổng thể về kiểm tra giám sát thực thi luật pháp về bảo vệ môi trường ; phát huy hiệu quả hoạt động của lực lượng cảnh sát môi trường.

Thủ tướng cũng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị xây dựng bộ tiêu chí để đánh giá, xếp hạng công tác bảo vệ môi trường các địa phương từ 2017. Thủ tướng cũng yêu cầu xây dựng hệ thống quan trắc bảo vệ môi trường tại các vùng kinh tế trọng điểm, khu vực tập trung nguồn thải, khu vực nhạy cảm về môi trường. Tăng cường quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; tiến hành rà soát, đề xuất sửa đổi hệ thống pháp luật về môi trường; sắp xếp tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý môi trường các cấp.

Các giải pháp phải thực hiện

Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021 bắt đầu hoạt động của mình với phương châm là một Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển, trong đó coi tài nguyên, môi trường vừa là đối tượng phải bảo vệ, vừa là nguồn lực để thúc đẩy các hoạt động phát triển.

Để thực hiện được mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, trước hết cần khẩn trương xây dựng Quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia làm căn cứ thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư của từng vùng phù hợp yêu cầu bảo vệ môi trường, định hướng ưu tiên lĩnh vực, công nghệ đầu tư phù hợp với quy hoạch môi trường.

Ban hành hệ thống các tiêu chí đánh giá, sàng lọc, lựa chọn ưu tiên các dự án công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường, bảo đảm theo đúng định hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững; các quy định về phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường, trong đó có các quy định về cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường.

Rà soát quy hoạch, xây dựng các khu xử lý, chôn lấp rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, chất thải nguy hại đáp ứng nhu cầu theo quy mô phát sinh các loại chất thải này tại các địa phương, các khu vực kinh tế trọng điểm, nơi có các dự án lớn.

Kiểm soát, giám sát chặt chẽ hoạt động phát sinh, thu gom, vận chuyển, xử lý, thải bỏ, chôn lấp các loại chất thải, nhất là chất thải nguy hại.

Các giải pháp lâu dài là tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật nói chung, bám sát thực tế và theo kịp tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, diễn biến nhanh và mức độ phức tạp của các vấn đề môi trường.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, phát triển khoa học công nghệ về bảo vệ môi trường. Tiếp tục quan tâm xây dựng các dự án ưu tiên về bảo vệ môi trường nhằm kêu gọi hỗ trợ từ nguồn vốn ODA.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên, Bộ trưởng Trần Hồng Hà Bộ kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các địa phương xem xét, ban hành Chỉ thị về một số nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác bảo vệ môi trường, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành và địa phương đến năm 2020, có tiến độ hoàn thành và định kỳ kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện.

Kiến nghị Quốc hội chỉ đạo rà soát, điều chỉnh và bổ sung các quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, môi trường, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện các thỏa thuận thương mại tự do thế hệ mới; trong đó, chú trọng xây dựng các tiêu chí sàng lọc, tiếp nhận các dự án đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phải đảo đảm bố trí không dưới 1% ngân sách của địa phương chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường; tăng cường theo dõi, giám sát việc quản lý, sử dụng nguồn chi này một cách hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo chi đúng mục tiêu và đủ kinh phí theo quy định nhằm nâng cao hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước.

Rà soát, khoanh vùng các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, rủi ro xảy ra sự cố môi trường và có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hoạt động xả thải, phòng ngừa các sự cố môi trường bằng các biện pháp kỹ thuật-công nghệ phù hợp, kết hợp tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với các đối tượng này.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền của địa phương; tập trung xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; xây dựng năng lực ứng phó với sự cố môi trường, các vụ việc gây ô nhiễm môi trường.

Khánh Ly (TH theo TTXVN/Công Lý)