Định nghĩa và nội dung cơ bản của DMC
1. Khái niệm “túc động chiến lược” trong ĐMC
Khái niệm của “tác động chiến lược” trong ĐMC bao gồm nhiều phạm trù chiến lược, từ mức dộ, tính chất, phạm vi không gian và thời gian…đến đối tượng tác động đều ở cấp chiến lược. Vì vậy, trên cơ sở “tác động” mà chúng ta đã nói đến trong ĐTM, cần phải xem xét nó một cách hệ thống và toàn diện trên quy mô của chiến lược phát triển.
Những vấn đề phải được làm rõ trong ĐMC thường là:
– Tác động đó là gì? Thuộc loại nào? Có ảnh hưởng gì đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chiến lượcphát triển môi trường ?
– Phạm vi tác động rộng hẹp ra sao? Có liên quan đến những yếu tố môi trường và TNTN của cả vùng như thế nào?
– Thời gian tác động trước mắt hay lâu dài? Nó có chi phối tới thời hạn hoặc chu kỳ của chiến lược phát triển không?
– Mức độ tác động mạnh hay yếu? Có đủ mạnh để ảnh hưởng đến cấp vùng hay chỉ trong phạm vi khu vực hẹp?
– Khả năng tích luỹ tác động có nguy cơ đối với môi trường ra sao? Sự chồng chất (hay tích dồn) những tác động ấy có khả năng “bùng nổ” một pha môi trường không?
– Tất cả những tác động cùng với quy mô, thời gian và phạm vi tác động của nó ảnh hưởng tới chiến lược môi trường cũng như môi trường chiến lược của vùng và liên vùng như thế nào?
– v.v…
Như vậy việc nhận dạng đúng các phạm trù của tác động chiến lược là rất quan trọng, bởi vì nó quyết định thành công của công tác ĐMC.
Tất nhiên, cũng đễ dàng nhận thấy rằng khi tiến hành ĐMC của một dự án thuộc cấp chiến lược, nó không cho phép chúng ta có thể tìm kiếm tất cả các tác động như trong ĐTM của một dự án cụ thể được, mà chỉ xét đến những tác động chiến lược để làm cơ sở phân tích, đánh giá.
Trên cơ sở phân loại tác động: tác động ô nhiễm; tác động sình thái; tác động hảo tồn và khai thác TNTN; tác động môi trường văn hóa xã hội; tác động môi trường kinh tế… và căn cứ vào sự ảnh hưởng mang tính chiến lược của các tác động ấy mà chọn ra những tác động chiến lược. Kinh nghiệm cho thấy rằng ảnh hưởng chiến lược của nhũng tác động này không chỉ phụ thuộc thuần túy vào cường độ và phạm vi tác động, mà còn vào khả năng chồng chất hay tích dồn những tác động ấy tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ môi trường. Để tránh sai sót này đòi hỏi khi thực hiện ĐMC phải có nhận thức ở tầm nhìn chiến lược của các nhà chuyên môn đối với loại dự án được xem xét.
2. Khái niệm “đánh giá chiến lược’’ trong ĐMC
Nội dung cơ bản thứ hai của ĐMC là “đánh giá chiến lược” các vấn đề môi trường. Vì vậy “đánh giá chiến lược” ớ đây phải được hiểu là bao hàm nhiều phạm trù. Nó là thu thập, chỉnh lý số liệu, tài liệu ở cấp chiến lược; là phân tích đê’ xác định các tác động chiến lược mà dự án có thể gây ra cho môi trường; là xem xét, cân nhắc mức độ tác động có khả nãng ảnh hưởng đến chiến lược môi trường và tài nguyên thiên nhiên của quốc gia hay vùng như thế nào; là mức độ thích hợp chiến lược ra sao giúp cho việc quyết định lựa chọn được dự án. về mặt kỹ thuật, đánh giá chiến lược là một phạm trù của lý thuyết hệ thống (Theory of Systems). Hệ thống môi trường và những điều kiện cân bằng của nó luôn phải được cân nhắc và xem xét kỹ càng trong quá trình đánh giá.
– Đánh giá chiến lược còn có nghĩa là “Dự báo chiến lược”. Muốn dự báo được chính xác cần phải có kỹ thuật dự báo. Kỹ thuật dự báo tác động chiến lược không chỉ đa dạng, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế kỹ thuật và đặc biệt là điều kiện xã hội. Vì vậy “kinh nghiệm địa phương” được rút ra từ thực tiễn “bản địa” là những kiến thức quan trọng góp phần thành công cho công tác dự báo tương lai xa.
– Đánh giá chiến lược cũng có thể được hiểu là quản lý môi trường chiến lược mà dự án đòi hỏi.
– Đánh giá môi trường chiến lược có thể dựa vào các tiêu chí và tiêu chuẩn môi trường để làm cơ sở so sánh, hoặc có thể thông qua đơn vị tiền tệ để ước lượng tổn hại môi trường và tài nguyên trong tương lai. Một trong những phương pháp được ứng dụng là đưa nhũng giá trị môi trường và tài nguyên thiên nhiên vào hệ thống tài khoản quốc gia (State Nature Account – SNA).
Việc đánh giá môi trường chiến lược của các dự án phát triển, thành công hay thất bại phụ thuộc vào kiến thức cũng như tầm nhận thức của người đánh giá, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay quá trình này là vừa làm vừa học. Khi thực hiện một vấn đề mà lý luận cũng như thực tiễn chưa đầy đủ, đòi hỏi người thực hiện không chỉ đơn thuần có kiến thức, mà phải có tính sáng tạo cao để biến quá trình vừa làm thành vừa học có hiệu quả.
Khái niệm của “tác động chiến lược” trong ĐMC bao gồm nhiều phạm trù chiến lược, từ mức dộ, tính chất, phạm vi không gian và thời gian…đến đối tượng tác động đều ở cấp chiến lược. Vì vậy, trên cơ sở “tác động” mà chúng ta đã nói đến trong ĐTM, cần phải xem xét nó một cách hệ thống và toàn diện trên quy mô của chiến lược phát triển.
Những vấn đề phải được làm rõ trong ĐMC thường là:
– Tác động đó là gì? Thuộc loại nào? Có ảnh hưởng gì đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chiến lượcphát triển môi trường ?
– Phạm vi tác động rộng hẹp ra sao? Có liên quan đến những yếu tố môi trường và TNTN của cả vùng như thế nào?
– Thời gian tác động trước mắt hay lâu dài? Nó có chi phối tới thời hạn hoặc chu kỳ của chiến lược phát triển không?
– Mức độ tác động mạnh hay yếu? Có đủ mạnh để ảnh hưởng đến cấp vùng hay chỉ trong phạm vi khu vực hẹp?
– Khả năng tích luỹ tác động có nguy cơ đối với môi trường ra sao? Sự chồng chất (hay tích dồn) những tác động ấy có khả năng “bùng nổ” một pha môi trường không?
– Tất cả những tác động cùng với quy mô, thời gian và phạm vi tác động của nó ảnh hưởng tới chiến lược môi trường cũng như môi trường chiến lược của vùng và liên vùng như thế nào?
– v.v…
Như vậy việc nhận dạng đúng các phạm trù của tác động chiến lược là rất quan trọng, bởi vì nó quyết định thành công của công tác ĐMC.
Tất nhiên, cũng đễ dàng nhận thấy rằng khi tiến hành ĐMC của một dự án thuộc cấp chiến lược, nó không cho phép chúng ta có thể tìm kiếm tất cả các tác động như trong ĐTM của một dự án cụ thể được, mà chỉ xét đến những tác động chiến lược để làm cơ sở phân tích, đánh giá.
Trên cơ sở phân loại tác động: tác động ô nhiễm; tác động sình thái; tác động hảo tồn và khai thác TNTN; tác động môi trường văn hóa xã hội; tác động môi trường kinh tế… và căn cứ vào sự ảnh hưởng mang tính chiến lược của các tác động ấy mà chọn ra những tác động chiến lược. Kinh nghiệm cho thấy rằng ảnh hưởng chiến lược của nhũng tác động này không chỉ phụ thuộc thuần túy vào cường độ và phạm vi tác động, mà còn vào khả năng chồng chất hay tích dồn những tác động ấy tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ môi trường. Để tránh sai sót này đòi hỏi khi thực hiện ĐMC phải có nhận thức ở tầm nhìn chiến lược của các nhà chuyên môn đối với loại dự án được xem xét.
2. Khái niệm “đánh giá chiến lược’’ trong ĐMC
Nội dung cơ bản thứ hai của ĐMC là “đánh giá chiến lược” các vấn đề môi trường. Vì vậy “đánh giá chiến lược” ớ đây phải được hiểu là bao hàm nhiều phạm trù. Nó là thu thập, chỉnh lý số liệu, tài liệu ở cấp chiến lược; là phân tích đê’ xác định các tác động chiến lược mà dự án có thể gây ra cho môi trường; là xem xét, cân nhắc mức độ tác động có khả nãng ảnh hưởng đến chiến lược môi trường và tài nguyên thiên nhiên của quốc gia hay vùng như thế nào; là mức độ thích hợp chiến lược ra sao giúp cho việc quyết định lựa chọn được dự án. về mặt kỹ thuật, đánh giá chiến lược là một phạm trù của lý thuyết hệ thống (Theory of Systems). Hệ thống môi trường và những điều kiện cân bằng của nó luôn phải được cân nhắc và xem xét kỹ càng trong quá trình đánh giá.
– Đánh giá chiến lược còn có nghĩa là “Dự báo chiến lược”. Muốn dự báo được chính xác cần phải có kỹ thuật dự báo. Kỹ thuật dự báo tác động chiến lược không chỉ đa dạng, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế kỹ thuật và đặc biệt là điều kiện xã hội. Vì vậy “kinh nghiệm địa phương” được rút ra từ thực tiễn “bản địa” là những kiến thức quan trọng góp phần thành công cho công tác dự báo tương lai xa.
– Đánh giá chiến lược cũng có thể được hiểu là quản lý môi trường chiến lược mà dự án đòi hỏi.
– Đánh giá môi trường chiến lược có thể dựa vào các tiêu chí và tiêu chuẩn môi trường để làm cơ sở so sánh, hoặc có thể thông qua đơn vị tiền tệ để ước lượng tổn hại môi trường và tài nguyên trong tương lai. Một trong những phương pháp được ứng dụng là đưa nhũng giá trị môi trường và tài nguyên thiên nhiên vào hệ thống tài khoản quốc gia (State Nature Account – SNA).
Việc đánh giá môi trường chiến lược của các dự án phát triển, thành công hay thất bại phụ thuộc vào kiến thức cũng như tầm nhận thức của người đánh giá, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay quá trình này là vừa làm vừa học. Khi thực hiện một vấn đề mà lý luận cũng như thực tiễn chưa đầy đủ, đòi hỏi người thực hiện không chỉ đơn thuần có kiến thức, mà phải có tính sáng tạo cao để biến quá trình vừa làm thành vừa học có hiệu quả.
Trình tự lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược
Giữa ĐTM và ĐMC có cùng bản chất là đánh giá tác động môi trường, chúng chỉ khác nhau về tầm nhìn tấc động mà thôi. Vì vậy có thể áp dụng trình tự thực hiện ĐMC theo trình tự thực hiện ĐTM. Nhưng một nhận thức khách quan cho thấy các dự án phát triển ớ cấp chiến lược đều tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng rất lớn đến môi trường của một vùng hoặc một phần lãnh thổ, mặt khác lại chứa đựng rất nhiều các cơ hội trung gian, kéo dài suốt trong thời gian chiến lược, làm nảy sinh tác động trong quá trình thực hiện dự án khó mà có thể lường trước hay dự báo trước được. Do đó về mặt logic, thực hiện ĐMC không chỉ đơn thuần là xoay quanh những vấn đề mà dự án đặt ra, mà phải xem xét, đề xuất đến mọi khía cạnh đê đảm bảo dự án thực hiện được thành công trong tương lai xa.
Để công tác ĐMC có hiệu quả, thì trình tự thực hiện ĐMC ít nhất phải đảm bảo được các bước cơ bản sau đây:
+ Định hướng ĐMC .
+ Xác định các loại hình tác động chiến lược của dự án.
+ Lập đề cương ĐMC.
+ Phân tích ĐMC.
+ Xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch hành động kèm theo dự án để đảm bảo an toàn cho môi trường chiến lược.
+ Lập báo cáo ĐMC.
+ Thẩm định báo cáo ĐMC.
+ Sử dụng báo cáo ĐMC.
Các bước hay quy trình ĐMC trên đây phải được thực hiện phối hợp với các bước lập dự án, để đảm bảo rằng mọi vấn đề môi trường mà ĐMC chỉ ra ở các bước lập dự án đã được dự án nghiên cứu kịp thời và ngược lại những trở ngại môi trường mà dự án gây ra đã được ĐMC đánh giá. Như vậy những vấn đề môi trường còn lại của dự án mà ĐMC chỉ ra là ngoài khả năng của dự án, nó phải được nghiên cứ giải quyết bằng những biện pháp quản lý khác.
2.3.3.1. Định hướng ĐMC
Định hướng hay là bước chuẩn bị ĐMC của dự án, bao gồm những tìm hiểu ban đầu mang tính sơ bộ về khả năng hình thành những tác động của dự án chiến lược đến môi trường, như: xu thế gây tác động ban đầu và tác động trung gian, những vấn đề môi trường chủ động và bất chủ động của dự án. Những khả năng can thiệp và bất can thiệp của pháp luật. Trên cơ sở đó mà thu thập những tài liệu cần thiết như các bộ luật có liên quan, các chiến lược sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường thuộc phạm trù và phạm vi dự án, các định hướng chiến lược phát triển bền vững của quốc gia, ngành và địa phương cũng như chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, các tài liệu kiểm kê và kiêm toán môi trường thuộc tầm của dự án, các danh mục tiêu chuẩn môi trường cơ bản.
Đế làm tốt bước này, phía thực hiện ĐMC phải cùng phía thực hiện dự án đồng tìm hiểu về những điểu kiện, yêu cầu ban đầu làm cơ sở để xây dựng nên dự án chiến lược. Với mục tiêu là làm hài hòa giữa chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chiến lược phát triển môi trường. Trong công tác ĐMC việc kiểm toán và kế toán môi trường giữ một vai trò đặc biệt quan trọng và xem kết quả này (hay dữ liệu này) như là “vốn môi trường ” có được để hoạch định mọi công việc của vùng được hợp lý, làm hài hòa hai phương diện nói trên. Thực tiễn cho thấy phần lớn giá trị môi trường là giá trị ngoại ứng (không có bán trên thị trường và không xác định chủ sử dụng cụ thể) nên “vốn môi trường” dễ bị lạm dụng cho mục tiêu kinh tế và xã hội, gây nên mất càn bằng thái quá cho môi trường. Vấn đề đặt ra ở đây là việc lựa chọn những ưu tiên phát triển kinh tế và những ưu tiên bảo vệ, nâng cao chất lượng những yếu tố môi trường có mục tiêu chiến lược là phải được quan tàm thích đáng trong quá trình phàn tích.
Tuy là bước định hướng, nhưng nó giữ một vai trò quan trọng là tạo ra sự chủ động trong đánh giá (chủ động về tổ chức phối hợp giữa các chuyên gia, chủ động về tài liệu tra cứu, chủ động trong phối hợp chặt chẽ với các bước lập dự án…). Nó giúp cho việc xác định các xu thế tác động cũng như khả năng vận dụng tối đa các điều khoản của luật cũng như các điều kiện khác được nhanh chóng và chính xác.
Để công tác ĐMC có hiệu quả, thì trình tự thực hiện ĐMC ít nhất phải đảm bảo được các bước cơ bản sau đây:
+ Định hướng ĐMC .
+ Xác định các loại hình tác động chiến lược của dự án.
+ Lập đề cương ĐMC.
+ Phân tích ĐMC.
+ Xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch hành động kèm theo dự án để đảm bảo an toàn cho môi trường chiến lược.
+ Lập báo cáo ĐMC.
+ Thẩm định báo cáo ĐMC.
+ Sử dụng báo cáo ĐMC.
Các bước hay quy trình ĐMC trên đây phải được thực hiện phối hợp với các bước lập dự án, để đảm bảo rằng mọi vấn đề môi trường mà ĐMC chỉ ra ở các bước lập dự án đã được dự án nghiên cứu kịp thời và ngược lại những trở ngại môi trường mà dự án gây ra đã được ĐMC đánh giá. Như vậy những vấn đề môi trường còn lại của dự án mà ĐMC chỉ ra là ngoài khả năng của dự án, nó phải được nghiên cứ giải quyết bằng những biện pháp quản lý khác.
2.3.3.1. Định hướng ĐMC
Định hướng hay là bước chuẩn bị ĐMC của dự án, bao gồm những tìm hiểu ban đầu mang tính sơ bộ về khả năng hình thành những tác động của dự án chiến lược đến môi trường, như: xu thế gây tác động ban đầu và tác động trung gian, những vấn đề môi trường chủ động và bất chủ động của dự án. Những khả năng can thiệp và bất can thiệp của pháp luật. Trên cơ sở đó mà thu thập những tài liệu cần thiết như các bộ luật có liên quan, các chiến lược sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường thuộc phạm trù và phạm vi dự án, các định hướng chiến lược phát triển bền vững của quốc gia, ngành và địa phương cũng như chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, các tài liệu kiểm kê và kiêm toán môi trường thuộc tầm của dự án, các danh mục tiêu chuẩn môi trường cơ bản.
Đế làm tốt bước này, phía thực hiện ĐMC phải cùng phía thực hiện dự án đồng tìm hiểu về những điểu kiện, yêu cầu ban đầu làm cơ sở để xây dựng nên dự án chiến lược. Với mục tiêu là làm hài hòa giữa chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chiến lược phát triển môi trường. Trong công tác ĐMC việc kiểm toán và kế toán môi trường giữ một vai trò đặc biệt quan trọng và xem kết quả này (hay dữ liệu này) như là “vốn môi trường ” có được để hoạch định mọi công việc của vùng được hợp lý, làm hài hòa hai phương diện nói trên. Thực tiễn cho thấy phần lớn giá trị môi trường là giá trị ngoại ứng (không có bán trên thị trường và không xác định chủ sử dụng cụ thể) nên “vốn môi trường” dễ bị lạm dụng cho mục tiêu kinh tế và xã hội, gây nên mất càn bằng thái quá cho môi trường. Vấn đề đặt ra ở đây là việc lựa chọn những ưu tiên phát triển kinh tế và những ưu tiên bảo vệ, nâng cao chất lượng những yếu tố môi trường có mục tiêu chiến lược là phải được quan tàm thích đáng trong quá trình phàn tích.
Tuy là bước định hướng, nhưng nó giữ một vai trò quan trọng là tạo ra sự chủ động trong đánh giá (chủ động về tổ chức phối hợp giữa các chuyên gia, chủ động về tài liệu tra cứu, chủ động trong phối hợp chặt chẽ với các bước lập dự án…). Nó giúp cho việc xác định các xu thế tác động cũng như khả năng vận dụng tối đa các điều khoản của luật cũng như các điều kiện khác được nhanh chóng và chính xác.
.3.2. Xác định các loại hình tác động chiến lược của dự án
Thường thì một dự án phát triển kinh tế – xã hội (trừ những dự án hồi phục môi trường), khi được triển khai thực hiện đều gây ra những tác động xấu đến môi trường. Việc tiên lượng trước những tác động xấu ấy để có biện pháp ngăn chặn hoặc giảm nhẹ chúng theo hàng loạt những tiêu chí đã được chuẩn hóa (tiêu chí của các luật, tiêu chí của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và phát triển bền vững, tiêu chí của tiêu chuẩn môi trường…) là có ý nghĩa định hướng để dự án phát triển được bển vững.
Đối với loại dự án công trình cụ thể, chúng ta có hàng loạt dữ kiện cụ thể (như địa điểm đặt công trình cụ thể, công nghệ sử dụng cụ thể, tính chất tiêu thụ tài nguyên cụ thể, quy mô cụ thể, chất và lượng xả thải cụ thể, bối cảnh môi trường cụ thể…) vì thế chúng ta có thể đánh giá tác động của dự án tới môi trường một cách chính xác theo phương pháp ĐTM.
Đối với loại dự án phát triển kinh tế – xã hội từ cấp chương trình, quy hoạch, chính sách đến quy hoạch sử dụng lãnh thổ quốc gia, là thuộc dự án phát triển chiến lược. Chúng có đặc điểm chung là chứa đựng những phạm vi không gian rộng lớn (tương ứng là tiểu vùng, vùng và toàn quốc) với nội dung mang tính định hướng là chủ yếu, nên độ chính xác và tính cụ thể của nó cũng thuộc cấp chiến lược, hay nói cách khác độ chính xác và tính cụ thể hoàn toàn dựa trên cơ sở dự báo dài hạn. Vì vậy ĐMC có bản chất là những đánh giá mang tính khái quát và tính tổng thể đối với những vấn đề môi trường chính yếu nhất mà dự án có thể gây ra.
Vì vậy muốn thực hiện ĐMC, thì trước hết phải xác định được loại hình tác động chiến lược mà dự án gây ra cho môi trường. Thông thường chúng ta thấy có năm loại hình tác động môi trường chiến lược của các loại dự án này, đó là:
1. Tác động ô nhiễm môi trường vật lý, đó là môi trường nước, môi trường đất, môi trường không khí và những tác nhân biến đổi khí hậu.
2. Tác động sinh thái, bao gồm sự biến đổi về số lượng và chất lượng các vùng sinh thái nhạy cảm, đa dạng sinh học, tác động tới khả năng phát huy tiềm năng của các vùng địa lý cảnh quan, danh thắng, di tích lịch sử và những vấn đề sinh thái văn hóa khác.
3. Tác động bào tồn thiên nhiên, bao gồm những vấn đề có liên quan đến khai thác và sử dụng TNTN như tài nguyên đất (nông nghiêp, lâm nghiệp, đô thị), các loại tài nguyên rừng, tài nguyên biên, tài nguyên khoáng sản nói chung nhưng đặc biệt là tài nguyên nước sạch và năng lượng…
4. Tác động môi trường xã hội, gồm các đối tượng và tác nhân tác động lên các mô hình tái định cư, việc làm, sử dụng đất, nhà ở, đời sống xã hội, thu nhập và phúc lợi, phương tiện giải trí, trang bị và dịch vụ công cộng, dịch bệnh và an toàn thực phẩm, an toàn giao thông và xã hội, an ninh quốc phòng, trẻ em và thế hệ trẻ, nạn thất nghiệp, nhóm thiểu số, người già, người tàn tật, phụ nữ, bản sắc cộng đồng bản địa, phong tục tập quán, lối sống…
5. Tác động môi trường kinh tế, gồm các đối tượng và tác nhân tác động đến cơ hội có việc làm, khả năng tiếp cận các phương tiện dịch vụ xã hội, khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ hợp lý, chi phí và thu nhập…
Cần phải lựa chọn các loại hình tác động nào trên đây có khả năng là tác động chiến lược của dự án, các đối tượng và tác nhân nào trong đó có khả năng gây nên tác động chiến lược cần phải được liệt kê để xem xét đánh giá. Nếu trong ĐTM người ta chỉ lựa chọn tác động đáng kể, thì trong ĐMC ta phải lựa chọn tác động chiến lược. Việc xác định các tiêu chí để lựa chọn tác động chiến lược hiện nay chưa thấy tài liệu nào đề cập đến, nhưng bằng kinh nghiệm và suy luận logic chúng ta thấy tác động chiến lược phải có những điều kiện sau đây:
– Tác động phải đáp ứng các tiêu chí về “phạm vi” tác động (xem mục 2.1.3.2.)
– Tác động phải là đáp ứng cấc tiêu chí về “cường độ” tác động.
– Tác động phải giữ vai trò tác nhân chính yếu trong vấn để môi trường xẩy ra.
Để thực hiện được bước này, chúng ta có thể sử dụng quy trình để lựa chọn, gồm bốn bước sau đây:
Bước 1. Xác định tất cả các khả năng gây tác động đến môi trường khi thực hiện dự án (bao gồm các tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, tác động thứ sinh)
Bước 2. Tư vấn, tham khảo ỷ kiến (của cơ quan quản lý môi trường, các tổ chức nghiên cứu và xã hội, các cộng đồng có liên quan).
Bước 3. Quyết định các tác động chiến lược (là những tác động được lựa chọn từ các phương pháp đấnh giá, phù hợp theo tiêu chí và tác động được xác định từ việc tư vấn tham khảo ý kiến cộng đồng)
Bước 4. Dự kiến những giải pháp quản lý và hạn chế tác động chiến lược (gồm các chế định của pháp luật và các giải pháp kinh tế xã hội khác)
Thường thì một dự án phát triển kinh tế – xã hội (trừ những dự án hồi phục môi trường), khi được triển khai thực hiện đều gây ra những tác động xấu đến môi trường. Việc tiên lượng trước những tác động xấu ấy để có biện pháp ngăn chặn hoặc giảm nhẹ chúng theo hàng loạt những tiêu chí đã được chuẩn hóa (tiêu chí của các luật, tiêu chí của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và phát triển bền vững, tiêu chí của tiêu chuẩn môi trường…) là có ý nghĩa định hướng để dự án phát triển được bển vững.
Đối với loại dự án công trình cụ thể, chúng ta có hàng loạt dữ kiện cụ thể (như địa điểm đặt công trình cụ thể, công nghệ sử dụng cụ thể, tính chất tiêu thụ tài nguyên cụ thể, quy mô cụ thể, chất và lượng xả thải cụ thể, bối cảnh môi trường cụ thể…) vì thế chúng ta có thể đánh giá tác động của dự án tới môi trường một cách chính xác theo phương pháp ĐTM.
Đối với loại dự án phát triển kinh tế – xã hội từ cấp chương trình, quy hoạch, chính sách đến quy hoạch sử dụng lãnh thổ quốc gia, là thuộc dự án phát triển chiến lược. Chúng có đặc điểm chung là chứa đựng những phạm vi không gian rộng lớn (tương ứng là tiểu vùng, vùng và toàn quốc) với nội dung mang tính định hướng là chủ yếu, nên độ chính xác và tính cụ thể của nó cũng thuộc cấp chiến lược, hay nói cách khác độ chính xác và tính cụ thể hoàn toàn dựa trên cơ sở dự báo dài hạn. Vì vậy ĐMC có bản chất là những đánh giá mang tính khái quát và tính tổng thể đối với những vấn đề môi trường chính yếu nhất mà dự án có thể gây ra.
Vì vậy muốn thực hiện ĐMC, thì trước hết phải xác định được loại hình tác động chiến lược mà dự án gây ra cho môi trường. Thông thường chúng ta thấy có năm loại hình tác động môi trường chiến lược của các loại dự án này, đó là:
1. Tác động ô nhiễm môi trường vật lý, đó là môi trường nước, môi trường đất, môi trường không khí và những tác nhân biến đổi khí hậu.
2. Tác động sinh thái, bao gồm sự biến đổi về số lượng và chất lượng các vùng sinh thái nhạy cảm, đa dạng sinh học, tác động tới khả năng phát huy tiềm năng của các vùng địa lý cảnh quan, danh thắng, di tích lịch sử và những vấn đề sinh thái văn hóa khác.
3. Tác động bào tồn thiên nhiên, bao gồm những vấn đề có liên quan đến khai thác và sử dụng TNTN như tài nguyên đất (nông nghiêp, lâm nghiệp, đô thị), các loại tài nguyên rừng, tài nguyên biên, tài nguyên khoáng sản nói chung nhưng đặc biệt là tài nguyên nước sạch và năng lượng…
4. Tác động môi trường xã hội, gồm các đối tượng và tác nhân tác động lên các mô hình tái định cư, việc làm, sử dụng đất, nhà ở, đời sống xã hội, thu nhập và phúc lợi, phương tiện giải trí, trang bị và dịch vụ công cộng, dịch bệnh và an toàn thực phẩm, an toàn giao thông và xã hội, an ninh quốc phòng, trẻ em và thế hệ trẻ, nạn thất nghiệp, nhóm thiểu số, người già, người tàn tật, phụ nữ, bản sắc cộng đồng bản địa, phong tục tập quán, lối sống…
5. Tác động môi trường kinh tế, gồm các đối tượng và tác nhân tác động đến cơ hội có việc làm, khả năng tiếp cận các phương tiện dịch vụ xã hội, khả năng lựa chọn hàng hóa và dịch vụ hợp lý, chi phí và thu nhập…
Cần phải lựa chọn các loại hình tác động nào trên đây có khả năng là tác động chiến lược của dự án, các đối tượng và tác nhân nào trong đó có khả năng gây nên tác động chiến lược cần phải được liệt kê để xem xét đánh giá. Nếu trong ĐTM người ta chỉ lựa chọn tác động đáng kể, thì trong ĐMC ta phải lựa chọn tác động chiến lược. Việc xác định các tiêu chí để lựa chọn tác động chiến lược hiện nay chưa thấy tài liệu nào đề cập đến, nhưng bằng kinh nghiệm và suy luận logic chúng ta thấy tác động chiến lược phải có những điều kiện sau đây:
– Tác động phải đáp ứng các tiêu chí về “phạm vi” tác động (xem mục 2.1.3.2.)
– Tác động phải là đáp ứng cấc tiêu chí về “cường độ” tác động.
– Tác động phải giữ vai trò tác nhân chính yếu trong vấn để môi trường xẩy ra.
Để thực hiện được bước này, chúng ta có thể sử dụng quy trình để lựa chọn, gồm bốn bước sau đây:
Bước 1. Xác định tất cả các khả năng gây tác động đến môi trường khi thực hiện dự án (bao gồm các tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, tác động thứ sinh)
Bước 2. Tư vấn, tham khảo ỷ kiến (của cơ quan quản lý môi trường, các tổ chức nghiên cứu và xã hội, các cộng đồng có liên quan).
Bước 3. Quyết định các tác động chiến lược (là những tác động được lựa chọn từ các phương pháp đấnh giá, phù hợp theo tiêu chí và tác động được xác định từ việc tư vấn tham khảo ý kiến cộng đồng)
Bước 4. Dự kiến những giải pháp quản lý và hạn chế tác động chiến lược (gồm các chế định của pháp luật và các giải pháp kinh tế xã hội khác)
2.3.3.1. Lập dề cương ĐMC
Trước khi tiến hành lập đề cương ĐMC cần phải làm tốt công tác chuẩn bị về dự án cũng như vể môi trường. Các số liệu, dữ liệu, phương pháp đánh giá môi trường được sử dụng trong ĐMC phải được lựa chọn trên cơ sờ tham chiếu các chiến lược phát triển có liên quan, bởi vì nó là những dữ liệu dự báo chiến lược. Mặt khác một dự án chiến lược sẽ không thực hiện được, thậm chí không có ý nghĩa nếu tách nó khỏi tổng thế chiến lược phát triển chung. Đây cũng là nét đặc trưng của ĐMC mà chúng ta phái lưu ý.
Đề cương ĐMC là trình tự nghiên cứu ĐMC, là cơ sở đé lập báo cáo ĐMC sau này của dự án. Vì vậy đề cương phải bao hàm tiến trinh và nội dung sẽ được thực hiện trong các bước lập dự án, có như vậy mới đảm bảo rằng những yêu cầu của môi trường chiến lược được “cài đặt” trong dự án, và những vấn đề của dự án được đề cập và hoạch định trong chiến lược môi trường.
Mỗi loại dự án chiến lược có một quy trình lập dự án riêng, phụ thuộc vào tính chất cũng như đặc thù của dự án đó. Do đó việc lồng ghép các bước thực hiện ĐMC vào các bước lập dự án để chúng tương thích nhau là việc làm có ý nghĩa quan trọng, nó đòi hỏi không chỉ ở kinh nghiệm, mà phải biết kết hợp chặt chẽ các chuyên gia thuộc lĩnh vực môi trường và các lĩnh vực khác có liên quan.
Hiện nay ĐMC vẫn là một quá trình vừa làm vừa học, việc kết hợp giữa lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn đổ dần hoàn thiện phương pháp là điều rất cần thiết. Tuy vậy với tất cả những gì tích lũy được, chúng ta có thể đưa ra một dàn ý chung của đề cương này. Dưới đây xin giới thiệu một quy trình lập đề cương ĐMC để tham khảo. Nó bao gồm các nội dung như sau:
1. Giới thiệu
1.1. Mục tiêu môi trường chiến lược của dự án.
1.2. Các tham chiếu chiến lược phát triển khác có liên quan (các điều khoản tham kháo gồm các luật, các chế định, nghị định; các định hướng phát triển bền vững, các danh mục tiêu chuẩn môi trường, các chiến lược phát triển khác trong vùng dự án như các Quy hoạchphát triển ngành và địa phương…)
2. Các hướng dẫn ĐMC chung (theo luật và các yêu cầu khác nếu có trong trường hợp dự án có hợp tác quốc tế, hoặc tổ chức hay ngân hàng cấp vốn)
3. Các thông tin cơ bàn (thông tin nền).
3.1. Các nghiên cứu cơ bản của báo cáo chuyên ngành (dự án cùng loại).
3.2. Các nghiên cứu và báo cáo chung về hiện trạng môi trường (kiểm kê và kiểm toán môi trường thuộc vùng dự án)
4. Các hướng dẫn ĐMC chuyên ngành cùng loại dự án (nếu có)
4.1. Các ảnh hưởng môi trường chiến lược đặc trưng.
4.2. Các biện pháp quản lý môi trường chiến lược (luật, kinh tế, xã hội) và các kinh nghiệm kế thừa nếu có).
4.3. Quan trắc môi trường cần thiết (về hệ thống, nội dung, trách nhiệm, dự trù kinh phí cơ bản)
4.4. Dự kiến nghiên cứu ĐMC .
4.4.1. Các nhiệm vụ công tác cụ thể từng bước nghiên cứu ĐMC (bao gồm số liệu, phương pháp đánh giá được sử dụng, mục tiêu đạt được)
4.4.2. Lịch trình nghiên cứu ĐMC phối hợp với các bước lập dự án.
5. Ngân sách dự kiến và các nguồn kinh phí huy dộng có thể
6. Cấu trúc vê thời gian
6.1. Thời gian lập báo cáo ĐMC và thời hạn trình thẩm định .
6.2. Thời gian họp liên ngành thông qua đề cương ĐMC
7. Tham khảo ỷ kiến và các thông tin bổ sung.
8. Hoàn thiện đê cương ĐMC để có đề cương chính thức.
Cũng cần phải lưu ý rằng, để lập một đề cương ĐMC có thể tiến hành theo cách này hoặc cách khác, nhưng yêu cầu chung đối với nó là không bỏ sót những tác động môi trường chiến lược mà dự án gây ra, cơ sở nghiên cứu phải mang tính khoa học, tính chuẩn mực và tính thực tiễn, lập báo cáo ĐMC phải được thực hiện đồng thời với việc lập dự án.
Trước khi tiến hành lập đề cương ĐMC cần phải làm tốt công tác chuẩn bị về dự án cũng như vể môi trường. Các số liệu, dữ liệu, phương pháp đánh giá môi trường được sử dụng trong ĐMC phải được lựa chọn trên cơ sờ tham chiếu các chiến lược phát triển có liên quan, bởi vì nó là những dữ liệu dự báo chiến lược. Mặt khác một dự án chiến lược sẽ không thực hiện được, thậm chí không có ý nghĩa nếu tách nó khỏi tổng thế chiến lược phát triển chung. Đây cũng là nét đặc trưng của ĐMC mà chúng ta phái lưu ý.
Đề cương ĐMC là trình tự nghiên cứu ĐMC, là cơ sở đé lập báo cáo ĐMC sau này của dự án. Vì vậy đề cương phải bao hàm tiến trinh và nội dung sẽ được thực hiện trong các bước lập dự án, có như vậy mới đảm bảo rằng những yêu cầu của môi trường chiến lược được “cài đặt” trong dự án, và những vấn đề của dự án được đề cập và hoạch định trong chiến lược môi trường.
Mỗi loại dự án chiến lược có một quy trình lập dự án riêng, phụ thuộc vào tính chất cũng như đặc thù của dự án đó. Do đó việc lồng ghép các bước thực hiện ĐMC vào các bước lập dự án để chúng tương thích nhau là việc làm có ý nghĩa quan trọng, nó đòi hỏi không chỉ ở kinh nghiệm, mà phải biết kết hợp chặt chẽ các chuyên gia thuộc lĩnh vực môi trường và các lĩnh vực khác có liên quan.
Hiện nay ĐMC vẫn là một quá trình vừa làm vừa học, việc kết hợp giữa lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn đổ dần hoàn thiện phương pháp là điều rất cần thiết. Tuy vậy với tất cả những gì tích lũy được, chúng ta có thể đưa ra một dàn ý chung của đề cương này. Dưới đây xin giới thiệu một quy trình lập đề cương ĐMC để tham khảo. Nó bao gồm các nội dung như sau:
1. Giới thiệu
1.1. Mục tiêu môi trường chiến lược của dự án.
1.2. Các tham chiếu chiến lược phát triển khác có liên quan (các điều khoản tham kháo gồm các luật, các chế định, nghị định; các định hướng phát triển bền vững, các danh mục tiêu chuẩn môi trường, các chiến lược phát triển khác trong vùng dự án như các Quy hoạchphát triển ngành và địa phương…)
2. Các hướng dẫn ĐMC chung (theo luật và các yêu cầu khác nếu có trong trường hợp dự án có hợp tác quốc tế, hoặc tổ chức hay ngân hàng cấp vốn)
3. Các thông tin cơ bàn (thông tin nền).
3.1. Các nghiên cứu cơ bản của báo cáo chuyên ngành (dự án cùng loại).
3.2. Các nghiên cứu và báo cáo chung về hiện trạng môi trường (kiểm kê và kiểm toán môi trường thuộc vùng dự án)
4. Các hướng dẫn ĐMC chuyên ngành cùng loại dự án (nếu có)
4.1. Các ảnh hưởng môi trường chiến lược đặc trưng.
4.2. Các biện pháp quản lý môi trường chiến lược (luật, kinh tế, xã hội) và các kinh nghiệm kế thừa nếu có).
4.3. Quan trắc môi trường cần thiết (về hệ thống, nội dung, trách nhiệm, dự trù kinh phí cơ bản)
4.4. Dự kiến nghiên cứu ĐMC .
4.4.1. Các nhiệm vụ công tác cụ thể từng bước nghiên cứu ĐMC (bao gồm số liệu, phương pháp đánh giá được sử dụng, mục tiêu đạt được)
4.4.2. Lịch trình nghiên cứu ĐMC phối hợp với các bước lập dự án.
5. Ngân sách dự kiến và các nguồn kinh phí huy dộng có thể
6. Cấu trúc vê thời gian
6.1. Thời gian lập báo cáo ĐMC và thời hạn trình thẩm định .
6.2. Thời gian họp liên ngành thông qua đề cương ĐMC
7. Tham khảo ỷ kiến và các thông tin bổ sung.
8. Hoàn thiện đê cương ĐMC để có đề cương chính thức.
Cũng cần phải lưu ý rằng, để lập một đề cương ĐMC có thể tiến hành theo cách này hoặc cách khác, nhưng yêu cầu chung đối với nó là không bỏ sót những tác động môi trường chiến lược mà dự án gây ra, cơ sở nghiên cứu phải mang tính khoa học, tính chuẩn mực và tính thực tiễn, lập báo cáo ĐMC phải được thực hiện đồng thời với việc lập dự án.
Phân tích môi trường chiến lược
Phân tích ĐMC là phân tích chiến lược và đánh giá chiến lược, nó là khâu quan trọng nhất trong ĐMC của dự án, vì vậy đòi hỏi tập trung nhiều trí tuệ và công sức.
Muốn làm tốt khâu này, chúng ta phải thực hiện qua ba bước sau đây:
1. Xác định các nguồn tác động môi trường của dự án;
2. Xác định các biến đổi môi trường. Đặc biệt chú ý đến suy giảm tài nguyên, suy thoái và ô nhiễm môi trường;
3. Phân tích các tác động cụ thể để xác định các tác động chiến lược. Bao gồm lựa chọn phương pháp phân tích và kỹ thuật dự báo tác động chiến lược cũng như kết quả của quá trình tư vấn tham khảo ý kiến cộng đồng.
4. Đánh giá tác động chiến lược. Cãn cứ vào các loại hình tác động chiến lược của dự án đã chỉ ra ở mục (2.3.3.2) để đánh giá cụ thể các vấn đề môi trường. Để thực hiện tốt vấn đề này chúng ta phải lựa chọn phương pháp đánh giá tác động môi trường phù hợp với lĩnh vực tác động của dự án. Các số liệu đưa vào đánh giá phải tham chiếu những chiến lược phát triển có liên quan, tiêu chuẩn môi trường… để làm căn cứ, để trên cơ sở đó xác định các số liệu dự báo được khoa học.
Đây là công việc khó, cần có sự đóng góp cụ thể của các chuyên gia môi trường và các chuyên gia dự án cũng như các chuyên gia liên ngành khác.
23.3.5. Xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường chiến lược của dự án
Khâu này còn được gọi là quản lý môi trường của dự án, nó là phương hướng, giải pháp tổng thể (gồm các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường) giải quyết các vấn đề về môi trường trong quá trình thực hiện dự án.
Việc thực hiện được mục tiêu môi trường chiến lược đề ra nó không phải là khả năng tự vận động, sự thành công hay thất bại phụ thuộc hoàn toàn vào công tác quản lý. Đối với một vùng lãnh thổ hay một đô thị, để phát triển bền vững chúng đều được hoạch định môi trường chiến lược phù hợp với các chiến lược phát triển khác. Khi thực hiện một dự án chiến lược nào đó trong vùng, sự ảnh hưởng môi trường của dự án thông qua những tác động môi trường chiến lược của nó có khả năng phá vỡ mục tiêu môi trường chiến lược của khu vực. Vì vậy bên cạnh việc chỉ ra những tác động môi trường của dự án, cần phải xây dựng những biện pháp quản lý nhằm hạn chế những tác động ấy đến mức độ được chuẩn hóa, để đảm bảo rằng những biện pháp quản lý được thực hiện đầy đủ theo yêu cầu đề ra thì việc triển khai thực hiện dự án sẽ không gây trở ngại cho mục tiêu môi trường chiến lược của vùng.
Để xây dựng được các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường chiến lược cho dự án, cần phải dựa vào các cơ sở chuẩn hóa sau đây:
– Cơ sở chuẩn hóa đầu tiên là dựa vào các điều khoản của pháp luật, trong đó những luật về sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường có vai trò quan trọng nhất (gồm Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ tài nguyên rừng, Luật Bảo vệ tài nguyên biển, Luật Bảo vệ môi trường… và các luật có giá trị tham chiếu khác). Có như vậy mới đảm bảo rằng dự án mà chúng ta xây dựng nên và biện pháp thực hiện nó có đầy đủ cơ sở pháp lý.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ hai là dựa trên những nội dung cơ bản của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, là tài liệu pháp quy được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 8 nãm 2004, cũng như Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở địa phương nếu có.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ ba là Hệ thống Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam hiện hành.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ tư là Chiến lược phát triển khoa học công nghệ quốc gia và ngành có liên quan.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ năm là Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia và ngành có liên quan.
Cần phải chú ý rằng các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường chiến lược của dự án được xây dựng nên mà không tuân thủ những quy định của pháp luật sẽ phải bãi bỏ, không được thực hiện (thí dụ dự án chống ùn tắc và ô nhiễm môi trường không khí trong các đô thị lớn là hạn chế không cho người dân dùng xe máy đã phải bãi bỏ vì không đúng quy định của pháp luật). Hơn nữa những vấn đề chiến lược cần phải được xem xét, cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định, nó không dễ dàng gì có thể thay đổi hoặc điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, việc ấn định các giai đoạn Quy hoạch, và chu kỳ hồi phục môi trường cũng là những căn cứ quan trọng để chỉ ra những thời điểm thích hợp cho việc áp dụng các chương trình, kế hoạch, biện pháp giảm thiểu.
Một lưu ý khác cũng cần được nhắc đến, đó là khái niệm phương án thay thế. Trong ĐTM việc sử dụng đến phương án thay thế là có thể chấp nhận được vì chúng thường là dự án công trình cụ thể, việc thay đổi phương án do công nghệ hay do thay đổi địa điểm là có thể xẩy ra. Ngược lại đối với dự án chiến lược không có khái niệm này, mà chỉ có thể điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch hay chương trình cho phù hợp hơn, khi nhận ra những khiếm khuyêt mà trong quá trình dự báo chiến lược chưa đề cập hết, hoặc tầm nhìn chiến lược còn bị hạn chế. Để nâng cao chất lượng dự án, các vấn đề môi trường phải được thực hiện lồng ghép trong quy trình lập dự án, nó có ưu điểm là tiết kiệm thời gian, công sức và tiền của, đồng thời lại tạo ra được phương án có chất lượng môi trường cao.
Muốn làm tốt khâu này, chúng ta phải thực hiện qua ba bước sau đây:
1. Xác định các nguồn tác động môi trường của dự án;
2. Xác định các biến đổi môi trường. Đặc biệt chú ý đến suy giảm tài nguyên, suy thoái và ô nhiễm môi trường;
3. Phân tích các tác động cụ thể để xác định các tác động chiến lược. Bao gồm lựa chọn phương pháp phân tích và kỹ thuật dự báo tác động chiến lược cũng như kết quả của quá trình tư vấn tham khảo ý kiến cộng đồng.
4. Đánh giá tác động chiến lược. Cãn cứ vào các loại hình tác động chiến lược của dự án đã chỉ ra ở mục (2.3.3.2) để đánh giá cụ thể các vấn đề môi trường. Để thực hiện tốt vấn đề này chúng ta phải lựa chọn phương pháp đánh giá tác động môi trường phù hợp với lĩnh vực tác động của dự án. Các số liệu đưa vào đánh giá phải tham chiếu những chiến lược phát triển có liên quan, tiêu chuẩn môi trường… để làm căn cứ, để trên cơ sở đó xác định các số liệu dự báo được khoa học.
Đây là công việc khó, cần có sự đóng góp cụ thể của các chuyên gia môi trường và các chuyên gia dự án cũng như các chuyên gia liên ngành khác.
23.3.5. Xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường chiến lược của dự án
Khâu này còn được gọi là quản lý môi trường của dự án, nó là phương hướng, giải pháp tổng thể (gồm các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường) giải quyết các vấn đề về môi trường trong quá trình thực hiện dự án.
Việc thực hiện được mục tiêu môi trường chiến lược đề ra nó không phải là khả năng tự vận động, sự thành công hay thất bại phụ thuộc hoàn toàn vào công tác quản lý. Đối với một vùng lãnh thổ hay một đô thị, để phát triển bền vững chúng đều được hoạch định môi trường chiến lược phù hợp với các chiến lược phát triển khác. Khi thực hiện một dự án chiến lược nào đó trong vùng, sự ảnh hưởng môi trường của dự án thông qua những tác động môi trường chiến lược của nó có khả năng phá vỡ mục tiêu môi trường chiến lược của khu vực. Vì vậy bên cạnh việc chỉ ra những tác động môi trường của dự án, cần phải xây dựng những biện pháp quản lý nhằm hạn chế những tác động ấy đến mức độ được chuẩn hóa, để đảm bảo rằng những biện pháp quản lý được thực hiện đầy đủ theo yêu cầu đề ra thì việc triển khai thực hiện dự án sẽ không gây trở ngại cho mục tiêu môi trường chiến lược của vùng.
Để xây dựng được các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường chiến lược cho dự án, cần phải dựa vào các cơ sở chuẩn hóa sau đây:
– Cơ sở chuẩn hóa đầu tiên là dựa vào các điều khoản của pháp luật, trong đó những luật về sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường có vai trò quan trọng nhất (gồm Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ tài nguyên rừng, Luật Bảo vệ tài nguyên biển, Luật Bảo vệ môi trường… và các luật có giá trị tham chiếu khác). Có như vậy mới đảm bảo rằng dự án mà chúng ta xây dựng nên và biện pháp thực hiện nó có đầy đủ cơ sở pháp lý.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ hai là dựa trên những nội dung cơ bản của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, là tài liệu pháp quy được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17 tháng 8 nãm 2004, cũng như Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở địa phương nếu có.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ ba là Hệ thống Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam hiện hành.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ tư là Chiến lược phát triển khoa học công nghệ quốc gia và ngành có liên quan.
– Cơ sở chuẩn hóa thứ năm là Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia và ngành có liên quan.
Cần phải chú ý rằng các chính sách, chương trình, kế hoạch hành động môi trường chiến lược của dự án được xây dựng nên mà không tuân thủ những quy định của pháp luật sẽ phải bãi bỏ, không được thực hiện (thí dụ dự án chống ùn tắc và ô nhiễm môi trường không khí trong các đô thị lớn là hạn chế không cho người dân dùng xe máy đã phải bãi bỏ vì không đúng quy định của pháp luật). Hơn nữa những vấn đề chiến lược cần phải được xem xét, cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định, nó không dễ dàng gì có thể thay đổi hoặc điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, việc ấn định các giai đoạn Quy hoạch, và chu kỳ hồi phục môi trường cũng là những căn cứ quan trọng để chỉ ra những thời điểm thích hợp cho việc áp dụng các chương trình, kế hoạch, biện pháp giảm thiểu.
Một lưu ý khác cũng cần được nhắc đến, đó là khái niệm phương án thay thế. Trong ĐTM việc sử dụng đến phương án thay thế là có thể chấp nhận được vì chúng thường là dự án công trình cụ thể, việc thay đổi phương án do công nghệ hay do thay đổi địa điểm là có thể xẩy ra. Ngược lại đối với dự án chiến lược không có khái niệm này, mà chỉ có thể điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch hay chương trình cho phù hợp hơn, khi nhận ra những khiếm khuyêt mà trong quá trình dự báo chiến lược chưa đề cập hết, hoặc tầm nhìn chiến lược còn bị hạn chế. Để nâng cao chất lượng dự án, các vấn đề môi trường phải được thực hiện lồng ghép trong quy trình lập dự án, nó có ưu điểm là tiết kiệm thời gian, công sức và tiền của, đồng thời lại tạo ra được phương án có chất lượng môi trường cao.
Nguồn: http://quyhoachbds.com/phan-tich-dmc/