Đặt vấn đề
Rừng là một bộ phận của môi trường sống, là tài nguyên quý giá của đất nước, có khả năng tái tạo rất phong phú, đa dạng, có giá trị to lớn nhiều mặt đối với nền kinh tế quốc dân, văn hoá cộng đồng, du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học, an ninh quốc gia và chất lượng sống của cả dân tộc. Việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn xã hội.
Trong những năm qua, công tác bảo vệ và phát triển rừng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Với chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ và phát triển rừng đã mở ra những triển vọng to lớn cho sự tham gia đông đảo của nhiều lực lượng khác nhau vào các hoạt động lâm nghiệp; phát huy được sức mạnh của toàn xã hội tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng; kết hợp giữa bảo vệ rừng với phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo…. Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nghề rừng nhân dân. Thi hành Nghị định số 29/1998/NĐ – CP ngày 15/11/1998 của Chính phủ về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 56/1999/BNN – KL ngày 30/3/1999 hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư (thôn, bản).
Qua hơn 04 năm triển khai thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng cho thấy ở những nơi thực hiện tốt quy ước tình trạng săn bắn, buôn bán, khai thác trái phép lâm sản , cháy rừng … đã giảm hẳn; đặc biệt quy ước bảo vệ rừng đã góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm, tính tự giác của mỗi thành viên trong cộng đồng, phát huy tính tích cực của phong tục tập quán, các giá trị văn hóa truyền thống ở mỗi dân tộc trong cộng đồng, huy động được tối đa nguồn lực sẵn có ở địa phương tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Mặc dù vậy, hiện nay trong cả nước việc triển khai xây dựng quy ước còn chậm, hiệu quả của quy ước không cao, có nơi còn lúng túng trong việc triển khai…. Do đó, để quy ước thực sự là công cụ hữu hiệu trong công tác bảo vệ và phát triển rừng cần có sự tổng kết, nghiên cứu, đánh giá một các toàn diện và cụ thể quá trình triển khai xây dựng và thực hiện quy ước nhằm rút ra bài học kinh nghiệm, chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện bản quy ước để hướng dẫn và nhân rộng tại các địa phương.
Trên cơ sở đó và căn cứ vào tình hình thực tế của các địa phương đã và đang triển khai có hiệu quả quy ước bảo vệ và phát triển rừng. Cục Kiểm lâm tiến hành khảo sát, đánh giá tại một số tỉnh điểm: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Thừa Thiên – Huế, Gia Lai, Đắk Lắk .
I/ Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
1.1. Mục tiêu
Đánh giá hiệu quả quá trình triển khai xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng tại một số vùng sinh thái khác nhau. Từ đó, đề xuất các giải phát để hoàn thiện bản hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng.
1.2. Néi dung
– Phương pháp xây dựng quy ước của một số tỉnh có phù hợp với quy định của pháp luật và hương ước của làng bản đã có từ lâu đời.
– Đánh giá về quá trình xây dựng và thực hiện các nội dung trong bản quy ước tại một số tỉnh điển hình trong những vùng đã và đang triển khai có hiệu quả quy ước bảo vệ và phát triển rừng, từ đó tập hợp và đánh giá chất lượng của quy ước đã xây dựng (Tây Bắc, Tây Nguyên và Miền Trung).
– Tổng kết, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã được xây dựng và thực hiện để có định hướng tiến tới xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng có hiệu quả cao.
II/ Kết quả công tác xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng
Căn cứ vào những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 163/1999/NĐ- CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Quyết định số 245/1998/QĐ- TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp; Quyết định số 178/2001/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp; Căn cứ Nghị định số 29/1998/NĐ- CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã; Căn cứ Thông tư số 56/1999/TT/BNN-KL ngày 30/3/1999 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp; Căn cứ Chỉ thị số 52/2001/CT- BNN- KL ngày 07/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc đẩy mạnh công tác xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp. Qua các tài liệu thu thập; các văn bản chưa được triển khai thực hiện, các báo cáo của UBND tỉnh, huyện, chi cục Kiểm Lâm và khảo sát thực tế ở một số tỉnh thuộc các vùng sinh thái khác nhau của cả nước như Vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ đại diện cho các điều kiện phát triển kinh tế; các biện pháp canh tác khác nhau và phong tục, tập quán sinh hoạt khác nhau… Kết quả xây dựng và thực hiện quy ước như sau:
2.1. Phương pháp xây dựng quy ước
Qua điều tra, thu thập thông tin tại cơ sở (Chi tiết xem phần phụ lục) cho thấy; do đặc thù của từng vùng và điều kiện kinh tế- xã hội của từng tỉnh đầu tư với các mức độ khác nhau, nên phương pháp triển khai, các bước tiến hành và nội dung xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng tại các khu vực khảo sát có sự áp dụng khác nhau, tuy nhiên, về cơ bản xây dựng quy ước gồm 05 bước:
- Bước một: Công tác chuẩn bị
Trên cơ sở chủ trương và kế hoạch của tỉnh về công tác xây dựng quy ước, Chi cục Kiểm lâm và Hạt Kiểm lâm tổ chức triển khai và chỉ đạo Kiểm lâm địa bàn các nội dung sau:
+ Lập kế hoạch, xây dựng chương trình triển khai xuống xã;
+ Thu thập văn bản có liên quan, nghiên cứu chính sách, điều kiện kinh tế – xã hội của địa bàn phụ trách, tập quán sinh sống, canh tác của từng dân tộc sống trong cộng đồng;
+ Phối hợp với cán bộ Địa chính; Khuyến Nông- Lâm và Chủ rừng cùng làm việc và giới thiệu chương trình với lãnh đạo xã. Bàn bạc, thảo luận và đưa ra định hướng cơ bản, chọn một số thôn điển hình làm điểm để rút kinh nghiệm;
+ Sau khi được UBND xã đồng tình ủng hộ và cùng thực hiện, tiến hành trao đổi thống nhất với trưởng thôn, bản và già làng những nội dung cần đưa ra bàn bạc, thảo luận trước toàn thể người dân trong thôn, bản;
- Bước hai: Công tác tập huấn, giới thiệu xây dựng bản thảo quy ước bảo vệ và phát triển rừng
+ Cùng với trưởng thôn, bản và già làng (có sự chứng kiến của chính quyền xã) triệu tập cuộc họp thôn bản để giới thiệu và hướng dẫn xây dựng quy ước, đưa ra các nội dung để người dân bàn bạc thảo luận. Thành lập nhóm đại diện để xây dựng quy ước (Nhóm gồm trưởng thôn, bản và già làng, các đại diện tổ chức quần chúng như Hội Nông dân; Hội Phụ nữ; Hội Cựu chiến binh; Đoàn Thanh niên …);
Nhóm đại diện được giới thiệu và cung cấp các tài liệu cần thiết liên quan như:
– Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan;
– Giới thiệu vai trò, tác dụng của rừng. Những tác động gây ảnh hưởng xấu đến rừng và môi trường sống xung quanh …;
– Nội dung tập huấn nhằm nâng cao nhận thức; đánh giá tài nguyên rừng và xây dựng bản dự thảo quy ước bảo vệ và phát triển rừng;
– Nhóm đại diện thường xuyên liên lạc hai chiều giữa người dân và tổ công tác;
+ Nội dung quy ước phải đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên tham gia; ví dụ quy định các sản phẩm được phép khai thác, khai thác ở đâu? Cái gì? Khi nào? Ai được phép? Số lượng bao nhiêu? Thưởng phạt như thế nào?…;
+ Ở giai đoạn này, cán bộ hướng dẫn phải có năng lực chuyên môn và kỹ năng tạo lập mối quan hệ, tạo cơ hội cho mọi người được tham gia bình đẳng, hiểu rõ mục tiêu, nội dung và những kết quả mong đợi.
- Bước ba: Tổ chức họp thôn, bản thông qua bản quy ước bảo vệ và phát triển rừng
+ Sau khi tổ soạn thảo xây dựng song, tiến hành tổ chức họp giới thiệu nội dung quy ước để mọi người dân cùng thảo luận, biểu quyết công khai thông qua nội dung từng phần và toàn bộ quy ước. Nội dung của từng phần chỉ được phép thông qua khi có ý kiến đồng ý của ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia.
Biên bản cuộc họp phải được ghi chép đầy đủ, trung thực và có chữ ký xác nhận của trưởng thôn, bản, già làng cùng các đại diện tổ chức quần chúng; các trưởng họ, tộc.
- Bước bốn: Phê duyệt và tổ chức thông báo quy ước bảo vệ và phát triển rừng cho thôn, bản
+ Khi bản dự thảo quy ước được thôn, bản thống nhất các nội dung. Bản quy ước và biên bản họp thôn được gửi đến UBND xã và Hội đồng nhân dân xã xem xét thông qua, để trình lên UBND huyện phê duyệt.
+ Sau khi bản quy ước được UBND huyện chuẩn y, Ủy ban nhân dân xã tổ chức cuộc họp thôn bản công bố quyết định và thông báo nội dung quy ước, bàn biện pháp thực hiện.
- Bước năm: Tổ chức thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng
+ Ghi tóm tắt nội dung bản quy ước và sao thành nhiều bản gửi cho các thành viên trong thôn, đồng thời xây dựng bảng quy ước lớn ở trung tâm và đầu thôn, bản để mọi người trong và ngoài thôn, bản biết để thực hiện.
+ Cần tổ chức tổ bảo vệ, do thôn bản bầu ra để kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy ước.
+ Lập sổ theo dõi thực hiện quy ước, quá trình theo dõi nếu có vấn đề phát sinh mới phù hợp với điều kiện, kinh tế – xã hội, tập quán của cộng đồng thì đề nghị sửa đổi, bổ sung vào bản quy ước.
Qua phương pháp và các bước tiến hành xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng cho thấy, trình tự và nội dung xây dựng quy ước phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật và phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Cụ thể là:
– Các quy ước đang thực hiện đều được Ủy ban nhân dân huyện chuẩn y, dưới hai hình thức: UBND huyện phê duyệt trực tiếp vào bản quy ước hoặc UBND huyện ra quyết định ban hành kèm theo bản quy ước đó;
– Ở một số địa phương việc xây dựng quy ước, hương ước lồng ghép với xây dựng làng văn hóa (như ở Thừa Thiên Huế), đây cũng là chủ trương lớn của Nhà nước Việt Nam. Nội dung của bản quy ước được xắp xếp trong một chương của quy ước làng văn hóa;
– Một số khu vực, việc xây dựng quy ước được thực hiện trên cơ sở kế thừa những cam kết bảo vệ rừng của thôn, bản đã thực hiện để cụ thể hóa xây dựng thành bản quy ước bảo vệ và phát triển rừng thôn, bản (ở Hòa Bình); Một số thôn bản còn kế thừa các bản hương ước trước đây, thông qua già làng đã lồng ghép vào bản quy ước các nội dung mang tính thuần phong, mỹ tục của thôn bản phù hợp với quy định của Nhà nước mà không mất đi các giá trị văn hóa, tinh thần của các phong tục, tập quán đó (Lai Châu; Sơn La; Hòa Bình; ĐăkLăk; Gia Lai);
– Các nội dung quy định việc xem xét giải quyết của cộng đồng trong bản quy ước về xử lý những vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, như các quy định về bồi thường thiệt hại và xử phạt cũng phù hợp với quy định của pháp luật. Chủ yếu là giải quyết bằng tuyên truyền giáo dục, thuyết phục, hòa giải hoặc buộc tham gia lao động công ích cho thôn, bản ….
2.2. Đánh giá quá trình xây dựng và thực hiện nội dung quy ước
Sau hơn 04 năm triển khai xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn bản, kết quả cho thấy quy ước bảo vệ và phát triển rừng là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, và thực tế hiện nay, quy ước đã và đang được triển khai thực hiện rộng rãi trên toàn quốc.
Với việc trao quyền chủ động cho chính quyền các cấp thực hiện phân cấp trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp; thi hành Nghị định sè 29/1998/NĐ- CP ngày 11/5/1998 của chính phủ về việc ban hành quy chế thực hiệndân chủ ở xã và Thông tư số 56/1999/BNN – KL ngày 30/3/1999 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, bản, buôn, làng, ấp. Các tỉnh đã chủ động và thực sự quan tâm đến công tác bảo vệ và phát triển rừng. UBND các tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và giao cho các cấp, các ngành liên quan như UBND cấp huyện, Chi Cục kiểm lâm, Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Văn hoá – thông tin, Sở tư pháp … Phối hợp xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện quy ước.
Kết quả xây dựng quy ước qua thực tế khảo sát ở các tỉnh như sau:
– Tỉnh Lai Châu: Bắt đầu triển khai, thực hiện từ năm 2000. Đến nay, quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã được xây dựng tại 1.791 thôn, bản thuộc 145/156 xã, phường có rừng và đất lâm nghiệp; trong đó có 75.831 hộ tham gia. Các bản quy ước đều được Chủ tịch UBND huyện chuẩn y thực hiện. Đặc biệt, Chi cục Kiểm lâm đã ban hành bản hướng dẫn câu hỏi hệ thống theo dõi quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng thôn bản, hiện đang triển khai thực hiện có hiệu quả, có thể dùng làm tài liệu tham khảo co các địa phương.
– Tỉnh Sơn La: Tiến hành triển khai từ 7/2000. Đến nay, đã triển khai thực hiện được 339 quy ước và hiện đang triển khai xây dựng ở 1.089 bản/3.000 bản thuộc 10 huyện, thị của tỉnh.
– Tỉnh Hoà Bình: Đã tiến hành triển khai sớm. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng và thực hiện được 1.566 bản quy ước thuộc địa bàn của 215 xã có rừng và đất lâm nghiệp.
– Tỉnh Thừa Thiên- Huế: Đã triển khai thực hiện xây dựng quy ước từ năm 2000, tuy nhiên, việc triển khai mới chỉ tiến hành xây dựng mô hình điểm ở một số thôn, bản làm tốt công tác bảo vệ rừng để rút kinh nghiệm và nhân rộng. Đến nay tỉnh đã xây dựng và thực hiện được 104 quy ước trên địa bàn 44 xã thuộc 8 huyện.
– Tỉnh Gia Lai: Triển khai thực hiện tuyên truyền vận động từ năm 2000 đến nay mới xây dựng được 108 quy ước bảo vệ rừng, trong đó được chuẩn y thực hiện 101 quy ước.
– Tỉnh Đắc Lắk: Mới bắt đầu triển khai xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng từ khi có Chỉ thị số 52/2001/CT – BNN – KL của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đến nay, mới xây dựng được 88 quy ước trên địa bàn 39 xã thuộc 19 huyện, thành phố, trong đó có 66 quy ước được chuẩn y thực hiện. Việc xây dựng quy ước mới chỉ dừng lại ở mức xây dựng các mô hình điểm để đúc rút kinh nghiệm, tiến tới triển khai rộng rãi trong toàn tỉnh.
Từ thực tế yêu cầu của các cộng đồng dân cư thôn, bản và thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong những năm qua cho thấy, chính quyền các cấp đã thực sự cố gắng thực hiện quy ước ở thôn, bản có rừng và đất lâm nghiệp và đã mang lại hiệu quả thiết thực, cụ thể là:
– Xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, bản vừa là một công cụ hữu hiệu để quản lý bảo vệ rừng, đồng thời cũng là một bước thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở xã, cho nên được sự đồng tình ủng hộ, quan tâm của các cấp chính quyền cơ sở và sự tham gia thực hiện nhiệt tình của người dân.
– Hiện tại, ở các địa phương đã tổ chức giao rừng và đất lâm nghiệp đến hộ gia đình và cộng đồng hoặc những khu vực có trình độ dân trí cao hơn hoặc được đầu tư kinh phí cao hoặc được chuyển giao kỹ thuật của các dự án đều có nhu cầu xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng; phát huy được tác dụng của quy ước và mang lại lợi ích thiết thực trên nhiều mặt cho cộng đồng.
– Quy ước bảo vệ và phát triển rừng được người dân trong thôn, bản tự nguyện tham gia đã nâng cao nhận thức của các thành viên trong cộng đồng thôn, bản. Người dân thấy được sự cần thiết phải liên kết giữa các hộ gia đình trong thôn, bản, đã gắn được trách nhiệm của mỗi người, mỗi gia đình với cả cộng đồng và các cộng đồng xung quanh (Mình vì mọi người- Mọi người vì mình) cùng nhau chia xẻ, bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế – xã hội.
– Việc xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng chủ yếu được thực hiện ở vùng sâu, vùng xa, những khu vực thường là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số với những phong tục, tập quán khác nhau. Vì vậy, quy ước đã tạo cơ hội cho đồng bào các dân tộc duy trì và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp đã có từ lâu đời trong cộng đồng, đồng thời đóng góp được các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc trong bản quy ước, tạo nên giá trị truyền thống chung.
– Quy ước, hương ước bảo vệ và phát triển rừng đã tạo ra chỗ đứng cho người phụ nữ trong cộng đồng (ở Sơn La), họ được trực tiếp tham gia vào xây dựng quy ước và cùng thực hiện công tác bảo vệ và phát triển rừng. Việc mà lâu nay đối với người phụ nữ vùng cao, đặc biệt là phụ nữ các dân tộc thiểu số ít hoặc không có cơ hội tham gia đóng góp.
2.3. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã được xây dựng và thực hiện
Điểm nổi bật và đặc trưng cơ bản của quy ước, hương ước bảo vệ và phát triển rừng là sự tham gia của người dân và cộng đồng thôn, bản trong suốt quá trình từ xây dựng đến thực hiện bản quy ước. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để xây dựng nội dung hoàn chỉnh của quy ước để người dân thực hiện có hiệu quả cao. Trong khuôn khổ báo cáo, sẽ phân tích, đánh giá thực trạng của việc xây dựng và thực hiện quy ước để tìm ra những yếu tố thuận lợi cũng như những trở ngại, hạn chế tác động đến quá trình thực hiện quy ước. Dưới đây là một số đánh giá theo SWOT:
2.3.1. Điểm mạnh
– Trong quá trình triển khai thực hiện quy ước, đã có hệ thống chính sách liên quan khá đồng bộ và đầy đủ; như chính sách về phân cấp quản lý, chính sách quyền hưởng lợi, các chính sách ưu tiên cho phát triển nông thôn miền núi (chương trình 135; chương trình phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía bắc; chương trình phát triển kinh tế Tây Nguyên; Bảo vệ môi trường và cân bằng giới…) đã tạo nên nội dung phong phú trong quy ước, đồng thời là môi trường và hành lang thuận lợi cho phát triển quy ước.
– Chủ trương xã hội hóa công tác quản lý, bảo vệ rừng của nhà nước đã đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của người dân và đã huy động được nhiều thành phần tham gia đóng góp, xây dựng các điều khoản của bản quy ước. Vì vậy, quy ước phù hợp với lòng người dân, được người dân đồng tình ủng hộ, cam kết thực hiện, phát huy được quyền làm chủ tập thể trong bảo vệ và phát triển rừng. Nâng cao được tính chủ động, sáng tạo của nhân dân và bình đẳng trong mọi hoạt động của cộng đồng.
– Quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã và đang được triển khai trong phạm vi các hộ gia đình, các tổ chức và các thành phần kinh tế khác được giao đất lâm nghiệp và nhận khoán quản lý bảo vệ rừng, đất lâm nghiệp. Mặt khác nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đã quan tâm đầu tư và ưu tiên cho các dự án, chương trình phát triển lâm nghiệp nông thôn miền núi, vì vậy, quy ước được triển khai thực sự có hiệu quả cao.
– Hệ thống tổ chức các lâm trường quốc doanh và các tổ chức lâm nghiệp khác của Nhà nước không ngừng được đổi mới cho phù hợp với cơ chế hoạt động mới. Vì vậy, các doanh nghiệp giữ vai trò đầu mối tạo điều kiện cho việc hỗ trợ và khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế và cộng đồng trong phát triển lâm nghiệp. Ví dụ, ở Gia Lai cộng đồng đã tham gia nhận đất của doanh nghiệp được đầu tư vốn để trồng rừng, sau đó là chăm sóc, bảo vệ và cùng chia sẻ lợi ích đối với sản phẩm cuối cùng.
– Những vi phạm về quy ước bảo vệ rừng được giải quyết kịp thời, trên cơ sở hoà giải, thương lượng tình làng nghĩa xóm, có tác dụng đoàn kết, gắn bó tăng thêm sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong cộng đồng dân cư; tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ nhau cùng phát triển, xoá đói giảm nghèo trong cộng đồng, chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao, đạo đức xã hội ngày càng được cải thiện.
2.3.2. Điểm yếu
– Nội dung của nhiều bản quy ước mới chỉ đi sâu vào lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng, mà ít quan tâm đến lĩnh vực phát triển rừng, vì vậy dẫn đến tình trạng:
+ Chưa thúc đẩy được sản xuất kinh doanh lâm nghiệp để phát triển kinh tế của cộng đồng;
+ Thu nhập từ các sản phẩm lâm nghiệp yếu kém, không khuyến khích, động viên được người dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng.
– Một số chính sách của Nhà nước chưa rõ ràng, đồng bộ, cụ thể là: Công tác quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp kém hiệu quả, thiếu quy hoạch tổng thể, quy hoạch sử dụng đất cấp xã, thôn, bản manh mún, chưa có ranh giới hành chính cấp thôn, bản và không xác định rõ loại đất, loại rừng …;
– Một số quy định và mức xử phạt trong bản quy ước cần xem xét lại, bởi vai trò của trưởng thôn, bản chỉ mang tính hành chính và chưa có trách nhiệm pháp lý. Vì vậy, việc xử phạt không đúng với các quy định của pháp luật về lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. Việc xử lý vi phạm phụ thuộc vào chính quyền cấp xã và Kiểm lâm;
– Do cộng đồng thôn, bản chưa được công nhận đầu đủ về tư cách pháp nhân và quản lý rừng thôn, bản cũng chưa được nhà nước công nhận về mặt pháp lý, vì vậy thông thường cộng đồng thôn bản không được giao hoặc thuê hoặc khoán rừng và đất lâm nghiệp. Do đó rất khó khăn về thu nhập cho cộng đồng để chi phí cho các hoạt động bảo vệ, giám sát và tuyên truyền chung trong cộng đồng.
Đến nay, công tác kiểm tra, giám sát việc xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng vẫn chưa có hiệu quả cao;
– Các chính sách về lâm nghiệp tạo ra cơ sở pháp lý và hợp pháp để khuyến khích mọi người dân bình đẳng cùng tham gia một cách tích cực vào công tác bảo vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên, người dân nhận thức và hiểu biết các chính sách về lâm nghiệp của Nhà nước còn hạn chế;
– Mức độ tham gia của người dân trong quá trình xây dựng và thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng có tăng, nhưng về cơ bản còn thấp. Nhất là một số địa phương công tác đầu tư thấp, giàn trải và chạy theo thành tích về số lượng quy ước, nội dung quy ước còn mang tính dập khuôn,… tạo sự tham gia của người dân mang tính hình thức, áp đặt kém hiệu quả;
– Việc xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã thực sự được xã hội quan tâm. Tuy nhiên, việc vận dụng và chia sẻ lợi ích trong cộng đồng còn nhiều phức tạp và chưa rõ ràng; người dân có quá ít lợi ích khi tham gia thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng.
– Một số địa phương cán bộ thực hiện yếu, thiếu kinh nghiệm.
2.3.3. Cơ hội
– Chính sách phân cấp quản lý và chủ trương thúc đẩy nhanh xã hội hoá công tác quản lý, bảo vệ rừng của Nhà nước sẽ tạo cơ hội tham gia của người dân rộng rãi và có hiệu quả hơn vào quy ước;
– Nhà nước tiếp tục có những chính sách ưu tiên cho phát triển nông – lâm nghiệp nông thôn, đặc biệt là khu vực nông thôn miền núi đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp, vì vậy, đây là cơ hội để quy ước triển khai, thực hiện.
– Giao rừng tự nhiên cho cộng đồng đang là giải pháp tích cực được nhiều tỉnh quan tâm và áp dụng thí điểm. Đây là cơ hội tốt để khẳng định việc xây dựng và thực hiện quy ước gắn với giao rừng cho cộng đồng;
– Với việc triển khai cán bộ công chức kiểm lâm xuống địa bàn, sâu sát cơ sở, bám dân, bám rừng để bảo vệ rừng tận gốc. Cán bộ, công chức Kiểm lâm đã giúp cho chính quyền thôn, bản tuyên truyền pháp luật về lâm nghiệp, tham mưu giám sát thực thi Luật Bảo vệ và Phát triển rừng trên địa bàn, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý tài nguyên rừng của chính quyền cấp xã, làm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của chủ rừng và cộng đồng dân cư thôn bản, theo dõi chặt chẽ diễn biến rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn. Đã góp phần cho bản quy ước được hoàn thiện và mang tính pháp lý cao hơn.
2.3.4. Thách thức
– Chính sách về phát triển kinh tế- xã hội nói chung và kinh tế lâm nghiệp nói riêng thực sự chưa ổn định bền vững, do đó cản trở cho các hoạt động lâm nghiệp của người dân và cộng đồng;
– Một số quy ước bảo vệ và phát triển rừng hiện nay được đánh giá là triển khai có hiệu quả đều gắn với việc rừng và đất rừng được giao hoặc khoán cho cộng đồng thôn bản. Điển hình là ở ĐăkLăk và TT- Huế, tuy nhiên việc giao rừng cho cộng đồng hiện nay lại chưa có được quy định cụ thể trong luật, các địa phương tuỳ theo mức độ quan tâm khác nhau mà có các giải pháp áp dụng khác nhau và đang ở trong giai đoạn thử nghiệm, vì vậy tính bền vững của giải pháp không cao.
– Do điều kiện vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, ít được tiếp xúc với tiến bộ khoa học kỹ thuật, cộng với trình độ văn hóa yếu kém dẫn đến sản xuất kém phát triển, đời sống kinh tế đồng bào gặp nhiều khó khăn. Người dân chỉ biết khai thác, lợi dụng rừng là chính, đây cũng là nguy cơ không thành công trong việc thực hiện quy ước;
– Một số cộng đồng thôn, bản, đặc biệt là khu vực Tây nguyên có rất nhiều dân tộc đang sinh sống trong cùng một cộng đồng, tạo ra sự bất đồng ngôn ngữ và phong tục tập quán … Vì vậy, rất khó khăn cho việc điều chỉnh nội dung bản quy ước hoàn chỉnh và thống nhất dẫn đến hiệu quả thực hiện quy ước không cao;
– Mặc dù chính sách hưởng lợi theo QuyÕt ®Þnh sè 178/2001/Q§- TTg cña Thñ tíng ChÝnh phñ ban hành đang là nguồn động lực thúc đẩy người dân và cộng đồng tích cực tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng, tuy nhiên do chu kỳ sản xuất kinh doanh của lâm nghiệp dài, thu nhập sản phẩm từ rừng trong giai đoạn trung gian rất khó khăn, nguồn thu của cộng đồng và người dân hạn chế. Đặc biệt, đối với những cộng đồng cuộc sống chủ yếu phụ thuộc vào rừng, đây là thách thức tiềm ẩn tác động và ảnh hưởng đến sự tham gia không tích cực của người dân và cộng đồng trong các hoạt động của quy ước.
– Chủ rừng quốc doanh chưa tìm ra được cơ chế hoạt động sản kinh doanh phù hợp, để đảm bảo lợi ích hài hoà giữa cộng đồng dân cư tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Chính quyền cấp xã chưa chủ động còn mong đợi vào Nhà nước.
Như vậy, để quy ước bảo vệ và phát triển rừng thực sự là công cụ tốt quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, hợp với lòng dân cần có sự tham gia tích cực và chủ động của người dân, cộng đồng thôn bản.
Để thúc đẩy sự tham gia của người dân thực hiện có hiệu quả quy ước bảo vệ và phát triển rừng nhà nước cũng cần cải tiến và hoàn thiện một số lĩnh vực như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách như Luật đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng … Khẳng định vị trí, vai trò của cộng đồng được xem như là chủ thể đủ tư các pháp nhân, để tạo điều kiện cho cộng đồng được giao đất, vay vốn sản xuất kinh doanh; Tăng cường các hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho cộng đồng và người dân; Có chính sách đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho công đồng; Tổ chức đào tạo, huấn luyện nâng cao trình độ cho Kiểm lâm địa bàn và tập huấn cho cán bộ xã, trưởng thôn, bản ….
2.4. Những bài học kinh nghiệm
– Để người dân hiểu và tự nguyện tham gia thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng, trước hết cần phải nâng cao nhận thức về giá trị tài nguyên rừng, ý thức về bảo vệ rừng trong cộng đồng bằng nhiều hình thức tuyên truyền như: Tổ chức thi tìm hiểu về Luật bảo vệ và phát triển rừng; Ký cam kết bảo vệ rừng cho các hộ gia đình gần rừng, ven rừng; xây dựng bản quy ước, biểu niêm yết ở gần rừng, tuyên truyền các văn bản pháp luật, chính sách hưởng lợi về quản lý bảo vệ rừng trên hệ thống phương tiện thông tin đại chúng…; Đồng thời lực lượng Kiểm lâm phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương cấp huyện, xã để phổ biến đến tận người dân;
– Quá trình xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng nhất thiết phải có sự tham gia, bàn bạc đóng góp ý kiến và thoả thuận cùng nhất trí thông qua toàn dân trong cộng đồng thôn, bản. Trong đó, cần quan tâm vấn đề về giới;
Ở những nơi có già làng, trưởng bản theo phong tục truyền thống được cộng đồng tôn sùng thì phải thông qua già làng nhất trí thực hiện. Nếu già làng không biết tiếng phổ thông thì phải có phiên dịch tiếng dân tộc (bản địa);
– Nội dung của bản quy ước phải cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu, mặt khác phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và tuân thủ những qui định của pháp luật; một mặt phải kế thừa, phát huy thuần phong mỹ tục, những tập quán tốt đẹp của mỗi cộng đồng dân cư, địa phương;
– Cộng đồng dân cư thôn, bản phải ổn định không còn di cư, tỉ lệ tăng dân số cơ học gần như không có, thì việc xây dựng và thực hiện quy ước mới có tính khả thi;
– Tổ chức thực hiện là khâu quan trọng và quyết định. Vì vậy, đòi hỏi công chức Kiểm lâm phụ trách địa bàn phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng phổ cập và có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, giám sát hướng dẫn, và lập sổ theo dõi. Định kỳ phải họp dân kiểm điểm tình hình thực hiện quy ước, nhắc nhở trưởng thôn, bản xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm các điều khoản trong quy ước do chính họ xây dựng và thoả thuận thực hiện, nhằm tránh thiên vị người cùng dòng họ của người đứng đầu cộng đồng hoặc phạt vạ ….
– Cần thành lập tổ công tác gồm Kiểm lâm, địa chính, khuyến Nông- Lâm; các tổ chức đoàn thể, già làng, trưởng bản đại diện dòng tộc để tham gia hướng dẫn quá trình triển khai, xây dựng và thực hiện quy ước;
– Kinh nghiệm cho thấy, các quy ước hiện nay đang thực hiện có hiệu quả đều được sự qua tâm sát sao của chính quyền địa phương và các ngành liên quan về triển khai thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp, chỉ đạo, kiểm tra, tuyên truyền và đầu tư kinh phí thực hiện. Đặc biệt, sự thành công của quy ước còn có sự đóng góp không nhỏ của các dự án trong và ngoài nước về chuyển giao kỹ thuật, xây dựng mô hình, đầu tư kinh phí trong lĩnh vực lâm nghiệp.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ QUY ƯỚC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
3.1. Kết luận
Quy ước bảo vệ và phát triển rừng là công cụ, phương tiện để bảo vệ và phát triển rừng tận gốc, góp phần thúc đẩy xã hội hoá công tác quản lý, bảo vệ rừng và cụ thể hoá quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Từ các kết quả thu thập được, đồng thời với những phân tích, đánh giá nêu trên, qua hơn 4 năm thực hiện quy ước bảo vệ và phát triển rừng cho thấy:
– Quy ước bảo vệ và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn bản tự bàn bạc, thảo luận và thống nhất ý kiến xây dựng và tổ chức thực hiện. Với sự hướng dẫn, giám sát của kiểm lâm địa bàn và được sự chuẩn y quy ước của Uỷ ban nhân dân huyện, vì vậy quy ước phù hợp với phong tục, tập quán, nguyện vọng của người dân và cộng đồng; đồng thời không trái với các quy định của Nhà nước;
– Quy ước bảo vệ và phát triển rừng nâng cao được ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân trong cộng đồng; tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với các chính sách của nhà nước; huy động được mọi nguồn lực sẵn có tại địa phương góp phần quan trọng cho việc bảo vệ rừng, phát triển kinh tế của mỗi gia đình, cộng đồng và các khu vực xung quanh;
– Quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã duy trì, bảo vệ và phát huy phong tục tập quán; kế thừa được truyền thống văn hoá tốt đẹp của mỗi dân tộc, dòng tộc trong cộng đồng và trong khu vực, tạo dựng mối liên hệ mật thiết và liên kết giữa các hộ gia đình, dòng tộc, thôn bản thành sức mạnh đoàn kết chung của cả cộng đồng;
– Thông qua xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã hình thành được quy hoạch sử dụng đất cấp thôn bản, làm cơ sở cho việc quy hoạch sử dụng đất cấp xã, huyện. Đồng thời, xây dựng được mạng lưới bảo vệ rừng, phòng cháy- chữa cháy rừng từ thôn, bản.
3.2. Khuyến nghị
– Cần làm tốt công tác quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp, từ quy hoạch tổng thể đến các quy hoạch cấp tỉnh- huyện- xã và thôn bản. Nhà nước cần xem xét và hoạch định ranh giới hành chính rõ ràng giữa các thôn, bản;
– Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tiến tới thực hiện tốt công tác xã hội hoá nghề rừng của Đảng và Nhà nước;
– Những nơi chưa tiến hành giao đất lâm nghiệp và khoán quản lý, bảo vệ rừng, cần khẩn trương thực hiện giao đất lâm nghiệp và khoán bảo vệ rừng, để mọi khu rừng trên địa bàn đều có chủ quản lý. Đẩy nhanh tiến độ đổi mới các lâm trường quốc doanh theo Quyết định số 187/1999/QĐ – TTg ngày 16/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ;
– Cần tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh hơn nữa trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp của các cấp chính quyền theo qui định tại Quyết định số 245/1998/QĐ – TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ;
– Các tỉnh cần tăng cường chỉ đạo công tác xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, bản. Trên nguyên tắc triển khai đến đâu hoàn thành tốt đến đó, tránh tình trạng chạy theo thành tích, xây dựng dập khuôn, ồ ạt kém hiệu quả;
– Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần sớm nghiên cứu và đề nghị chương trình sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp lý có liên quan tới cộng đồng, trước hết là những quy định có liên quan tại Luật đất đai, Luật bảo vệ và Phát triển rừng; sửa đổi, bổ sung quy định khai thác, vận chuyển, tiêu thụ gỗ lâm sản để động viên, khuyến khích cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển rừng;
– Cộng đồng thôn, bản đang tham gia quản lý rừng hầu hết thuộc vùng sâu, vùng xa, cuộc sống đồng bào gặp nhiều khó khăn, trước mắt cũng như lâu dài cần có sự quan tâm đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức trong nước, cũng như các tổ chức quốc tế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý…;
– Cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá sâu, rộng hơn nữa về thực trạng của công tác xây dựng và thực hiện quy ước, đặc biệt là ở các tỉnh đang triển khai thí điểm giao quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho cộng đồng và các tỉnh đang có những dự án hỗ trợ về lâm nghiệp.
Báo cáo được xây dựng bởi cơ quan chủ trì: Cục Kiểm Lâm
Đơn vị chủ trì: Phòng Bảo vệ và PCCCR
Người thực hiện: Đỗ Như Khoa Trưởng phòng BV&PCCCR
Đàm Văn Long, Chuyên viên
Đoàn Hoài Nam, Chuyên viên